Bình luận: Tại sao Việt Nam phải đối mặt với cuộc chiến khó khăn trong cuộc chiến chống rác thải nhựa

Việt Nam Chống lại cuộc khủng hoảng rác thải nhựa nghiêm trọng Hàng năm, quốc gia này thải ra 1,8 triệu tấn rác thải nhựa, 1/3 trong số đó trôi ra đại dương. Nó chiếm 6% ô nhiễm nhựa đại dương toàn cầu và là nguồn phát thải lớn thứ tư thế giới.

Điều này không chỉ làm trầm trọng thêm những thách thức về môi trường của Việt Nam mà còn phủ bóng đen lên danh tiếng quốc tế của nước này khi nước này đã cam kết cam kết chắc chắn về phát triển bền vững và chuyển đổi xanh.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm cách giải quyết vấn đề rác thải nhựa như một “nhiệm vụ ưu tiên”, như đã nêu trong các văn bản chính sách cấp cao của mình. Cựu Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát động chiến dịch toàn quốc chống rác thải nhựa, lấy câu chuyện thường dành cho những nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất của đất nước.

Tòa nhà Quốc hội Việt Nam tại Hà Nội. Đảng Cộng sản cầm quyền của đất nước đã coi việc loại bỏ rác thải nhựa là ưu tiên quốc gia. Ảnh: Ảnh AP

Giải quyết rác thải nhựa ở Việt Nam phải đối mặt với những thách thức phức tạp từ ba nguồn chính: sản xuất công nghiệp, tiêu dùng hộ gia đình và rác thải nhựa nhập khẩu. Mỗi lĩnh vực đều yêu cầu các giải pháp chính sách phù hợp và đưa ra những thách thức khác nhau.

Sau khi Luật Bảo vệ Môi trường sửa đổi có hiệu lực vào năm ngoái, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia Đông Nam Á đầu tiên thực hiện chính sách Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR). Quy định yêu cầu nhà sản xuất và nhập khẩu phải quản lý toàn bộ vòng đời sản phẩm của mình bằng cách tái chế hoặc đóng góp vào quỹ bảo vệ môi trường của Việt Nam. Đến tháng 1, EPR sẽ áp dụng cho các sản phẩm sử dụng lốp, ắc quy, dầu máy và túi nhựa, mở rộng sang đồ điện tử vào năm 2025 và ô tô vào năm 2027.

Tuy nhiên, tính khả thi của việc triển khai EPR trong một khoảng thời gian giới hạn vẫn còn nhiều nghi vấn. Điều đó trước tiên đòi hỏi phải chuyển đổi cơ bản Việt Nam thành một cơ sở sản xuất chi phí thấp với các quy định môi trường lỏng lẻo. Điều này càng được nhấn mạnh bởi thực tế là 68% công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam bị phát hiện vi phạm các quy định về môi trường.

READ  "The Wall That Heels", Đài tưởng niệm Chiến tranh Quốc gia Việt Nam, đến Knoxville vào tháng 4

Biến đổi khí hậu: Việt Nam có mất đi một tỷ cây gỗ?

Ngoài ra, chính sách EPR của Việt Nam dường như đã được thực hiện mà không có sự tham vấn đầy đủ với các doanh nghiệp mà nó ảnh hưởng. Điều này đã làm dấy lên những lời phàn nàn về phí tái chế quá cao và không thực tế. Cơ sở hạ tầng tái chế còn hạn chế của Việt Nam đã tạo nên những thách thức này, với khả năng xử lý chỉ bằng 1/3 tổng lượng rác thải nhựa. Kết quả là, chính sách EPR có nguy cơ trở nên kém hiệu quả – về mặt lý thuyết là hợp lý nhưng thực tế không thể thực hiện được. Trong tình hình như vậy, thay vì thúc đẩy tăng trưởng bền vững, nó có thể trở thành một rào cản quan liêu khác đối với doanh nghiệp.

Việc giải quyết vấn đề tiêu dùng nhựa dùng một lần của hộ gia đình, vốn chiếm tới 72% lượng rác thải nhựa của Việt Nam, cũng đặt ra những thách thức tương tự. Chính phủ đã áp dụng phương pháp phân phối mạnh mẽ, lên kế hoạch cấm sản xuất và nhập khẩu túi nhựa dùng một lần vào năm 2026. Nó cũng mở rộng đến các cơ sở bán lẻ như siêu thị, khách sạn, nhà hàng và khu nghỉ dưỡng. Nhiều chiến dịch nâng cao nhận thức khác nhau cũng đã được triển khai nhằm thúc đẩy lối sống không nhựa của người tiêu dùng. Tuy nhiên, tác động của các biện pháp này còn hạn chế. Trung bình, mỗi hộ gia đình trong số 26 triệu hộ gia đình trên cả nước sử dụng 1kg (2,2 pound) túi nhựa mỗi tháng, 80% trong số đó được vứt bỏ. Một sự thay đổi chính sách gần đây yêu cầu phải phân loại rác thải nhựa tại nguồn vào năm 2025 để giúp giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, do những thất bại trước đây trong việc thực thi các quy định tương tự, tính hiệu quả của sáng kiến ​​mới này vẫn chưa được xác định.

Một người phụ nữ Việt Nam nhặt vỏ sò trong một khu rừng ven biển ở tỉnh Hòa, nơi rác thải nhựa vương vãi trên cành do thủy triều dâng cao. Ảnh: AFP

Nguồn rác thải nhựa lớn thứ ba của Việt Nam là rác thải nhập khẩu – vốn ít được chú ý cho đến năm 2018, khi các container rác thải nhập khẩu không có người nhận tại các cảng lớn của Việt Nam đã gây phẫn nộ trong dư luận. Sau khi Trung Quốc cấm nhập khẩu rác thải nhựa vào năm đó, Việt Nam có nguy cơ trở thành bãi rác mới cùng với các nước Đông Nam Á khác. Năm 2018, Việt Nam chứng kiến ​​lượng rác thải nhựa nhập khẩu tăng 62%, buộc chính phủ phải thực hiện các biện pháp chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, đến cuối năm 2022, Việt Nam sẽ là nước nhập khẩu phế liệu nhựa lớn thứ 5 thế giới. Do phế liệu nhập khẩu chiếm 25% tổng lượng rác thải nhựa của Việt Nam, xu hướng này làm tăng áp lực lên các cơ sở tái chế vốn đã quá tải của nước này.

Giải quyết tình trạng khó xử phức tạp về rác thải nhựa ở Việt Nam đòi hỏi một chiến lược nhiều mặt. Về nguyên tắc, chính phủ đã thiết lập một khung pháp lý mạnh mẽ để giải quyết cuộc khủng hoảng rác thải nhựa. Tuy nhiên, thử thách thực sự nằm ở việc thực hiện và thực thi các nguyên tắc này. Ngoài ra, việc thay đổi hành vi của người tiêu dùng hướng tới lối sống thân thiện với môi trường cũng là một thách thức. Chính phủ đã đưa ra một số biện pháp cứng rắn, bao gồm phạt nặng đối với hành vi xả rác và không phân loại rác đúng cách, cũng như đề xuất dịch vụ cộng đồng bắt buộc đối với những người vi phạm.

03:40

Phong trào môi trường của Việt Nam phải đối mặt với sự đàn áp sau khi một nhà hoạt động khác bị bỏ tù vì trốn thuế

Phong trào môi trường của Việt Nam phải đối mặt với sự đàn áp sau khi một nhà hoạt động khác bị bỏ tù vì trốn thuế

Thêm nghiên cứu điển hình Nhật Bản nước Đức Bên cạnh những biện pháp “gậy” hay trừng phạt, những biện pháp khuyến khích (“củ cà rốt”) đã được chứng minh là cần thiết. Ví dụ: người tiêu dùng có thể được khuyến khích tái chế chai nhựa nếu họ được hoàn lại tiền khi trả lại. Cũng cần phải làm cho các cơ sở tái chế có thể tiếp cận được ở những nơi công cộng. Về lâu dài, cần lồng ghép “ba R” (giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế) vào các chuẩn mực xã hội.
Sự tham gia của khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội dân sự là rất quan trọng trong việc tăng cường nỗ lực của chính phủ trong các lĩnh vực này. Kết quả là, sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp tái chế tư nhân còn thiếu và gần đây Triệt phá các tổ chức phi chính phủ về môi trường Điều này không chỉ cản trở năng suất trong quản lý chất thải mà còn làm suy yếu tiềm năng của các giải pháp hiệu quả, dựa vào cộng đồng.
Ngoài ra, do tính chất xuyên quốc gia của ô nhiễm nhựa – sáu quốc gia Đông Nam Á nằm trong số 10 quốc gia gây ô nhiễm nhựa biển hàng đầu toàn cầu – cần phải tăng cường hợp tác trong nội bộ. ASEAN. Năm 2021, Hiệp hội đã đưa ra Kế hoạch hành động khu vực nhằm chống lại rác thải biển ở các quốc gia thành viên ASEAN (2021-2025).

Giới trẻ Việt chọn ‘nói dối’ giữa áp lực tăng trưởng kinh tế

Dự án được hỗ trợ và tài trợ bởi Ngân hàng Thế giới và quỹ ủy thác đa nhà tài trợ PROBLUE, liên quan đến việc tạo ra một nền tảng khu vực về kiến ​​thức EPR. Điều này sẽ tăng cường nỗ lực của Việt Nam trong việc chống rác thải nhựa. Ngoài ra, bằng cách hợp tác với các nước láng giềng, sẽ có cơ hội áp dụng và áp dụng các thông lệ tốt như Việt Nam. SingaporeChương trình hoàn trả tiền gửi theo lịch trình và nước Thái LanQuan hệ đối tác công-tư trong quản lý nhựa và chất thải. Ngoài ra, như được thể hiện trong Kế hoạch hành động khu vực, hợp tác khu vực giúp tập hợp các nguồn lực và kiến ​​thức chuyên môn. Điều này sẽ có lợi cho Việt Nam và Đông Nam Á trong việc giải quyết thách thức chung về môi trường.
Nguyễn Khắc Giang, ISEAS – Nghiên cứu viên chương trình Việt Nam học của Viện Yusof Ishak. Ông từng là nghiên cứu viên tại Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam. Bài bình luận này được đăng lần đầu trên ISEAS – trang web bình luận của Viện Yusof Ishak điểm tựa.sg.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *