Minh họa bởi Tranh Loop |
Viết bởi Thanh Nga
Trong một màn trình diễn đáng thất vọng khác, thể thao Việt Nam không giành được một huy chương nào tại Thế vận hội Paris 2024, trái ngược hoàn toàn với sự thống trị của đất nước tại Đại hội thể thao Đông Nam Á.
Hình ảnh vận động viên cử tạ Tern Văn Vinh gục xuống sau ba lần bắt cóc thất bại có lẽ tượng trưng cho những cuộc đấu tranh rộng lớn hơn mà Việt Nam phải đối mặt trên đấu trường thể thao lớn nhất thế giới.
Trong khi Việt Nam liên tục đứng đầu bảng tổng sắp huy chương tại Đại hội thể thao Đông Nam Á với hơn 100 huy chương vàng ở cả hai kỳ năm 2022 và 2023, thì thành tích của quốc gia này tại các sự kiện toàn cầu như Đại hội thể thao châu Á và Thế vận hội lại gây thất vọng. Tại Thế vận hội Paris, các quốc gia Đông Nam Á khác như Philippines, Thái Lan, Malaysia, Venezuela và Australia đã vượt qua vòng loại. Singapore và Indonesia đoạt huy chương, khiến Việt Nam trở thành quốc gia đông dân duy nhất trong khu vực không thể bước lên bục vinh quang.
Thành công của các quốc gia láng giềng này có thể là do sự tập trung chiến lược của họ vào các môn thể thao tận dụng thế mạnh của các vận động viên của họ. Ví dụ, việc Panipak Wongpatanaki giành huy chương vàng ở hạng mục taekwondo hạng dưới 49kg nêu bật sự đầu tư có mục tiêu của Thái Lan vào các bộ môn phù hợp. Tương tự, các quốc gia khác trong khu vực cũng xuất sắc ở các hạng mục nhẹ trong các môn thể thao như cử tạ và cầu lông.
Ngược lại, chiến lược phát triển thể thao của Việt Nam dường như thiếu sự tập trung và ưu tiên rõ ràng. Thay vì tập trung nguồn lực vào các môn thể thao và vận động viên quan trọng, quốc gia này đã dàn trải đầu tư vào một số lượng lớn các môn học, làm giảm tầm ảnh hưởng của chúng và cản trở tiềm năng đạt được thành tích xuất sắc.
Hai thập kỷ trước, Việt Nam đã giành được huy chương Olympic đầu tiên – huy chương bạc taekwondo tại Thế vận hội Sydney 2000 ở Trần Huệ Ngân – và sau đó là huy chương bạc môn cử tạ tại Thế vận hội Bắc Kinh 2008 (Hoàng Anh Tuấn), và huy chương đồng tại London 2012 Olympic (Trần Lý Quốc Tuấn). Những thành tựu này đã thể hiện khả năng phát hiện và bồi dưỡng tài năng trong các môn thể thao cụ thể của Việt Nam. Tuy nhiên, việc thiếu một cách tiếp cận nhất quán và tập trung đã dẫn đến sự sa sút ở Thế vận hội gần đây.
Nguồn vốn hạn chế là trở ngại lớn. Ngân sách thể thao hàng năm của Việt Nam dao động từ 826 tỷ đồng đến 1,2 nghìn tỷ đồng trong 5 năm qua, chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng đầu tư của các cường quốc thể thao trong khu vực.
Chẳng hạn, Singapore đầu tư hàng triệu USD vào vận động viên bơi lội Joseph Schooling, người đã đánh bại Michael Phelps ở nội dung 100m bướm tại Thế vận hội Rio 2016, Philippines đầu tư mạnh vào vận động viên thể dục dụng cụ Carlos Yulo, người giành hai huy chương vàng Olympic, viết lại lịch sử. trong nước.
Dù nhận được sự hỗ trợ tập luyện ở các nước như Hàn Quốc, Bulgaria nhưng các nữ vận động viên Việt Nam như Trình Tú Vinh vẫn chưa thể theo kịp các cường quốc thế giới ở môn bắn súng. Việc Vinh về đích ở vị trí thứ tư trên đấu trường thế giới cho thấy tiềm năng của cô, nhưng sự đầu tư không nhất quán và không đầy đủ đã cản trở cơ hội giành huy chương Olympic của cô.
Đặng Hà Việt, Giám đốc Tổng cục Thể thao Việt Nam, thừa nhận những thách thức nhiều mặt đối với sự phát triển thể thao trong nước. Ông chỉ ra hệ thống thi đấu trong nước ổn định nhưng thiếu sự tham gia quốc tế cấp cao, cơ sở hạ tầng không đầy đủ để huấn luyện các môn thể thao ưu tú và thiếu huấn luyện viên hàng đầu có khả năng nuôi dưỡng các vận động viên đẳng cấp thế giới.
Nguyên nhân sâu xa của những thách thức này, như Fit thẳng thắn nói, là do đầu tư hạn chế vào các môn thể thao ưu tú. Các môn thể thao lớn chỉ nhận được nhiều nguồn lực hơn mức trung bình một chút, chỉ có một vài chuyến tập luyện bổ sung mỗi năm. Kinh phí thường chỉ tăng lên khi các giải đấu lớn như Đại hội thể thao Đông Nam Á, Đại hội thể thao châu Á hay Thế vận hội đến gần.
Con đường phía trước
Chuyên gia Don Minh Chung khẳng định Việt Nam phải nhìn xa hơn nguồn tài trợ của chính phủ và thu hút thêm đầu tư từ khu vực tư nhân để các chương trình thể thao bền vững hơn. “Đằng sau thành công của các vận động viên ưu tú là thương hiệu và doanh nghiệp – đó là công thức thành công trong thể thao”, Chung nói.
Trong khi các môn thể thao như bóng đá, bóng rổ và bóng chuyền đã thành công trong việc đảm bảo quan hệ đối tác thể chế ở Việt Nam thì nhiều môn thể thao khác cũng gặp khó khăn trong việc thu hút sự hỗ trợ tương tự.
Lê Thị Hoàng Yến, Phó Giám đốc Tổng cục Thể thao Việt Nam, chỉ ra rằng một số liên đoàn thể thao địa phương đã đạt được tiến bộ nhờ thu hút những cá nhân có tầm nhìn xa làm việc có hệ thống. Tuy nhiên, những môn thể thao kém hấp dẫn với công chúng phải đối mặt với thách thức lớn hơn trong việc đảm bảo các hợp đồng tài trợ và quảng cáo. Các công đoàn này phải phát triển các kế hoạch tiếp thị chiến lược và đào tạo nhân viên của mình để đạt được quan hệ đối tác kinh doanh.
Ngoài việc đa dạng hóa các nguồn tài trợ, các chuyên gia nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đạt được sự cân bằng giữa thể thao ưu tú và sự tham gia đông đảo. Xương khẳng định “để thể thao đạt đến tầm cao nhất, chúng phải có đôi chân của mình: thể thao đại chúng và thể thao tinh hoa”. Thể thao đại chúng là cơ sở để phát hiện và nuôi dưỡng tài năng, đồng thời thúc đẩy hoạt động thể chất và phát triển toàn diện của vận động viên.
Thành công của các vận động viên như Julian Alfred, người đã làm nên lịch sử khi giành huy chương vàng 100 mét nữ cho Saint Lucia, và sự thống trị của Hàn Quốc ở môn bắn súng (giành 5 huy chương vàng ở Paris), chứng tỏ sức mạnh của việc lồng ghép thể thao vào hệ thống trường học. Những ví dụ này nêu bật sự cần thiết của Việt Nam trong việc ưu tiên thể thao học đường trong chiến lược phát triển thể thao rộng hơn của mình.
Khi Việt Nam chờ đợi những cải cách chính sách và cơ chế hỗ trợ cho ngành thể thao, các cơ quan quản lý thể thao của nước này phải chủ động điều chỉnh lại chiến lược của mình. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng về đặc điểm thể chất và sức mạnh của vận động viên Việt Nam để xác định môn thể thao nào phù hợp với họ nhất. Bằng cách tập trung đầu tư vào các lĩnh vực mục tiêu này, Việt Nam có thể tăng cơ hội đạt được thành công trong các sự kiện lớn như Đại hội thể thao châu Á và Thế vận hội Olympic.
“Nhà nghiên cứu Twitter không thể cứu vãn. Một luật sư nghiệp dư trên mạng xã hội. Chuyên gia âm nhạc từng đoạt giải thưởng. Trở thành một con nghiện. Dễ bị thờ ơ.”