“Tôi thích công việc ở đó, lương tốt nhưng tôi không thể thích nghi được với văn hóa công sở”, Brown, hiện sống ở quận Bình Thành, TP.HCM, nói.
Đầu năm nay anh gia nhập một công ty truyền thông với vai trò nhà sản xuất và biên tập video. Vào ngày đầu tiên, anh được giới thiệu vào bộ phận truyền thông gồm 8 thành viên, độ tuổi từ 25 đến 40. Sau khi giới thiệu ngắn gọn, mọi người quay lại với công việc của mình.
Lúc đầu anh ấy không có nhiều việc phải làm và cố gắng liên lạc với hai đồng nghiệp ngồi cạnh nhưng chỉ nhận được những câu trả lời ngắn gọn trước khi họ quay lại máy tính. Brown nói: “Tôi cảm thấy hơi kỳ lạ và hơi cô đơn và cô đơn.
Người đàn ông người Anh nhận thấy văn phòng yên tĩnh một cách kỳ lạ ngoại trừ tiếng bước chân, tiếng lật giấy tờ và những chiếc ghế được di chuyển cẩn thận. Anh dần dần hiểu ra rằng sự im lặng thường được coi là lịch sự ở Việt Nam.
Ông cũng quan sát thấy rằng không có sự tương tác sau giờ làm việc giữa các đồng nghiệp ngay cả khi đã làm việc cùng nhau một thời gian.
Trước đây làm trợ giảng tại một trường đại học ở London, các đồng nghiệp thường trò chuyện, pha trò và đặt câu hỏi cho nhau. Tiếng ồn được chấp nhận miễn là nó không làm phiền người khác.
Cảm thấy ngày càng bị cô lập, một tháng sau, anh ấy gửi tin nhắn trên nhóm trò chuyện của công ty: “Xin chào, mọi người có thể nói chuyện với tôi nhiều hơn được không?”
Yêu cầu của anh ấy được thông qua một cách lặng lẽ ngay cả khi 15 đồng nghiệp đọc nó. Ngày hôm sau, cuộc trò chuyện nhóm tiếp tục thảo luận về công việc, hoàn toàn phớt lờ những lời cầu xin của anh, điều này càng làm tăng thêm cảm giác bị loại trừ của anh.
“Văn phòng chiếm 50% cuộc đời tôi, nhưng công ty lại quá buồn tẻ và lạnh lùng”, anh nói, giải thích về quyết định từ chức vào cuối tháng 4.
Sasha Mai, người Mỹ gốc Việt tại công ty của cô ở Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2024. Ảnh do Mai cung cấp |
Trải nghiệm của Brown phản ánh xu hướng rộng hơn trong số những người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, những người thường xuyên gặp chấn thương do văn hóa công sở.
Guillaume Rondan, người sáng lập và Giám đốc điều hành người Pháp của Move to Asia, một tổ chức hỗ trợ người nước ngoài đầu tư, làm việc và nhập cư vào các nước châu Á, cho biết sau Covid, nhóm lớn nhất muốn chuyển đến Việt Nam làm việc bao gồm những người từ Pháp và Đức. , Anh và Mỹ, hầu hết ở độ tuổi 30 và 40.
Một nghiên cứu gần đây của nhà cung cấp dịch vụ tìm kiếm điều hành Navicos cho thấy 60% người nước ngoài bị sốc văn hóa khi làm việc tại Việt Nam.
29% cho biết họ phải đối mặt với rào cản ngôn ngữ, 27% cho rằng sự khác biệt giữa kỳ vọng và thực tế của họ và 18% cho rằng những hiểu lầm là lý do khiến họ gặp khó khăn.
Mùa hè năm ngoái, Zach, 30 tuổi đến từ Hoa Kỳ, ban đầu bị thu hút bởi văn hóa, con người và cuộc sống của Việt Nam, đã quyết định lên TP.HCM để dạy tiếng Anh.
Nhưng anh sớm phát hiện ra rằng thực tế khác xa với những gì anh tưởng tượng. “Nó hoàn toàn khác so với khi tôi còn là khách du lịch.”
Ở quê hương anh, giao tiếp giữa người sử dụng lao động và người lao động nói chung là không chính thức, trái ngược với hệ thống phân cấp chính thức ở Việt Nam.
“Chúng tôi không có nhiều vinh dự [in English],” anh kể lại, mô tả một tình huống mà anh cần thảo luận trực tiếp điều gì đó với giám đốc công ty, nhưng thay vào đó lại được hướng dẫn giao tiếp thông qua người quản lý trực tiếp của mình, vì tôn trọng hệ thống cấp bậc.
Zach rất ngạc nhiên trước tinh thần làm việc cao ở Việt Nam. Sau một ngày ở trường, anh nhận thấy trợ giảng của mình đang làm thêm giờ vào buổi tối. Tương tự, giờ làm việc chính thức của các đồng nghiệp Việt Nam là từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều nhưng họ thường làm việc liên tục đến 9 giờ tối.
Cô nói: “Tôi tự hỏi làm thế nào họ có nhiều năng lượng đến vậy khi tôi không có mặt ở đó và từ chối nhiều lớp học đến vậy”.
Zach nói: “Mọi người ở đây luôn làm việc và hiếm khi phàn nàn về khối lượng công việc của họ”, đồng thời cho biết thêm rằng anh không thể bỏ qua các email, cuộc gọi điện thoại và tin nhắn chính thức sau giờ làm việc. “Người dân ở Mỹ coi công việc là một phần cuộc sống và lấp đầy thời gian rảnh rỗi bằng việc giải trí cá nhân, trong khi người Việt Nam thường ngủ trong thời gian rảnh rỗi vì mệt mỏi.”
Rondon cho biết thông thường người nước ngoài phải mất từ 6 đến 12 tháng để thích nghi với văn hóa văn phòng địa phương và hoàn toàn ổn định cuộc sống ở Việt Nam. Ông thường khuyên khách hàng của mình dành ba tháng ở thành phố mà họ muốn sống và tận mắt trải nghiệm cuộc sống địa phương.
Ông cũng khuyến nghị nên kết nối với các chuyên gia nước ngoài, những người có thể cung cấp những hiểu biết sâu sắc và hỗ trợ quý giá khi làm việc tại Việt Nam. Nhưng những cú sốc văn hóa không phải lúc nào cũng là trải nghiệm tiêu cực đối với người nước ngoài tại Việt Nam.
Sasha Mai, người Mỹ gốc Việt 33 tuổi, làm việc cho một công ty xuất khẩu ở tỉnh Long An, đồng bằng sông Cửu Long, rất ngạc nhiên khi thấy mọi người lấy chăn, gối ra khỏi bàn làm việc sau bữa trưa và tắt đèn. Nằm xuống sàn đánh một giấc.
“Tôi tự hỏi tại sao họ có thể công khai nằm trong văn phòng,” anh nói, ban đầu rất bối rối.
Nhưng sau nửa tháng, Siesta bắt đầu đánh giá cao nền văn hóa này và lưu ý rằng nó giúp cải thiện năng suất làm việc của anh vào buổi chiều.
Ông cũng đánh giá cao khía cạnh xây dựng tinh thần đồng đội trong văn hóa doanh nghiệp Việt Nam. “Tôi rất ngạc nhiên khi họ tổ chức một chuyến du lịch lớn mang lại lợi ích cho 100 nhân viên”.
Công ty của ông đã tổ chức một chuyến nghỉ dưỡng vào mùa hè năm ngoái tại Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, với tiệc chiêu đãi, giải thưởng nhân viên và hát karaoke.
Ban đầu anh ấy thấy khái niệm này khác thường nhưng vẫn chọn tham gia. Chuyến đi giúp anh có cơ hội giao lưu với các đồng nghiệp ở các phòng ban, bộ phận khác mà trước đây anh chưa từng làm việc. “Tôi nghĩ đó là một cách tốt để gắn kết,” anh lưu ý.