Tại sao nhiều công ty châu Âu chọn Việt Nam hơn Trung Quốc

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 Phụ nữ làm việc tại Nhà máy May xuất khẩu Hưng Việt, Tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.  (Ảnh Reuters)

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 Phụ nữ làm việc tại Nhà máy May xuất khẩu Hưng Việt, Tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. (Ảnh Reuters)

Sự kết hợp giữa căng thẳng địa chính trị và chi phí cao thúc đẩy các tập đoàn lớn tìm kiếm các địa điểm sản xuất thay thế. Hoạt động kinh tế mạnh mẽ của Việt Nam trong những năm gần đây đã thu hút sự chú ý của các công ty châu Âu.

Việt Nam là một trong số ít quốc gia châu Á không bị suy thoái kinh tế khi bùng phát virus corona vào năm 2020 và 2021. Theo Ngân hàng Thế giới, năm nay, GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng khoảng 5,5%.

Tình hình kinh tế của Việt Nam trong và sau dịch đã thu hút sự chú ý của một số công ty lớn của Châu Âu.

Nhà cung cấp ô tô Đức Pros, có 11 nhà máy ở Trung Quốc, hiện đang thiết lập một địa điểm sản xuất mới giữa Thái Lan và Việt Nam.

Vào tháng 12, Lego của Đan Mạch đã công bố kế hoạch xây dựng nhà máy trị giá 1 tỷ đô la Mỹ (935 triệu euro) gần trung tâm thương mại phía Nam của Thành phố Hồ Chí Minh, một trong những dự án đầu tư lớn nhất của châu Âu tại Việt Nam cho đến nay.

Daniel M ல்ல ller, Giám đốc Phòng Thương mại Châu Á – Thái Bình Dương của Đức, cho biết “Hiện nay, có vẻ như các công ty quy mô vừa đang ngày càng cố gắng thâm nhập thị trường Việt Nam”.

Tại sao các công ty rời đi?

Các công ty châu Âu đang tìm kiếm các lựa chọn thay thế cho Trung Quốc vì một số lý do. Trong những năm gần đây, mức lương của Trung Quốc đã tăng lên, không thu hút được Trung Quốc đối với các nhà sản xuất giá rẻ.

Theo Moody’s Analytics, mức lương trung bình hàng năm ở Trung Quốc sẽ tăng từ khoảng € 5.120 (5.400 USD) vào năm 2010 lên € 13.670 vào năm 2020.

Về mặt địa chính trị, quan hệ của Trung Quốc với các chính phủ châu Âu xấu đi vào năm 2021 khi Liên minh châu Âu áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Trung Quốc vì hành vi đối xử với người thiểu số Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ ở khu vực Tân Cương.

Bắc Kinh sau đó đã ban hành các lệnh trừng phạt của riêng mình đối với các quan chức EU và thỏa thuận đầu tư đã được thống nhất trước đó đã bị đóng băng.

Đến năm 2022, chính sách “zero-govt” hiện tại của Bắc Kinh sẽ phá vỡ chuỗi cung ứng toàn cầu khi hoạt động sản xuất tiếp tục ở các thành phố bị khóa. Nó cũng đã làm lung lay niềm tin của các công ty EU vào Trung Quốc như một cơ sở sản xuất đáng tin cậy.

Thượng Hải gần đây đã mở cửa trở lại sau nhiều tháng bị khóa nặng, trong khi các khu vực của thủ đô Bắc Kinh đã bị đóng cửa trong nhiều tháng.

Tất cả những điều này đã gây bất ổn cho nền kinh tế và những cảnh báo đã được đưa ra rằng Trung Quốc có thể sẽ không đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP trong năm nay.

Trong ba tháng đầu năm 2022, GDP của Trung Quốc tăng 4,8%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu chính thức hàng năm là 5,5%, theo Ngân hàng Thế giới.

Ông Rafael Mog, lãnh đạo khu vực châu Á cho biết: “Ngay cả trước khi dịch bệnh xảy ra, chúng tôi đã chứng kiến ​​các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất sử dụng nhiều lao động, di cư từ đại lục của Trung Quốc sang các nước chi phí thấp khác trong khu vực, bao gồm cả Việt Nam”. Country Danger at Fitch Solutions, nói với DW.

Đồng thời, Việt Nam đã trở thành một điểm đến rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, ông nói.

Tiền lương thấp hơn ở Trung Quốc và Việt Nam có tầng lớp trung lưu tăng nhanh. Chính phủ Cộng sản cũng đang đầu tư rất nhiều vào cơ sở hạ tầng.

EU và Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do vào năm 2020, bao gồm hiệp định đầu tư, Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA). Thương mại song phương đã tăng lên 49 tỷ Euro vào năm 2021, từ 20,8 tỷ Euro vào năm 2012 và các cuộc đàm phán về Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA) đã bắt đầu.

Một báo cáo của Germany Trade and Invest, một nền tảng nghiên cứu và tư vấn, chỉ ra rằng các hiệp định này tạo điều kiện cho các công ty châu Âu dễ dàng mua bán công khai tại Việt Nam. Điều này bao gồm các quan hệ đối tác công tư được chính quyền địa phương ưa thích. Theo EVIPA, tỷ lệ sở hữu tối đa của nước ngoài tại các ngân hàng thương mại tăng từ 30% lên 49%.

Tại sao Trung Quốc vẫn cần thiết

Matthijs van den Broek, thuộc hiệp hội thương mại Hà Lan Việt Nam (DBAV), cho biết: “Vẫn còn phải xem liệu Việt Nam có biến Trung Quốc thành một lựa chọn sản xuất hay không. Ông nói với DW: “Nhưng với tư cách là một điểm đến đầu tư mở rộng hoặc bổ sung, ngoài Trung Quốc, hoặc là một phần của chiến lược Trung Quốc cộng một, thì nó chắc chắn đang có được chỗ đứng”.

“Trung Quốc quá lớn và quá tiên tiến để thực hiện bất kỳ phần nào của chiến lược châu Á”, ông nói thêm. “Việt Nam vẫn chưa ngang bằng với Trung Quốc về trình độ học vấn, lao động có tay nghề cao và cơ sở hạ tầng, hậu cần”.

M மு ller của Phòng Thương mại Châu Á – Thái Bình Dương của Đức lưu ý rằng việc Châu Âu tách khỏi Trung Quốc phụ thuộc vào vị trí của thương mại.

Ví dụ, các công ty Đức phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường Trung Quốc so với các nước châu Âu khác. Theo dữ liệu của OEC, xuất khẩu của Đức sang Trung Quốc năm 2020 là 99 tỷ euro, so với 19 19 tỷ ở Pháp.

“Vẫn chưa rõ liệu các công ty Đức, đặc biệt là các công ty lớn, có giảm đáng kể hoạt động của họ ở Trung Quốc hay không”, M மு ller nói. “Đây sẽ là điều kiện tiên quyết để những quốc gia như Việt Nam tin tưởng vào các khoản đầu tư mới quy mô lớn”.

Nó cũng phụ thuộc vào loại ngành được đề cập. Về lâu dài, các doanh nghiệp có sản xuất giá trị gia tăng cao, chẳng hạn như kỹ thuật tiên tiến và thiết bị thông minh, vẫn sẽ coi Trung Quốc là một trung tâm sản xuất vì chuỗi cung ứng của họ, Mock nói.

Nhưng sản xuất có tỷ suất lợi nhuận thấp, chi phí thấp và nhu cầu môi trường phức tạp thấp sẽ “liên tục dịch chuyển ra bên ngoài đất nước để giữ chi phí sản xuất thấp”, ông nói.

Theo M மு ller, nếu căng thẳng địa chính trị leo thang trong tương lai, “các công ty chắc chắn sẽ tìm kiếm một giải pháp thay thế Trung Quốc. Việt Nam sẽ” đóng một vai trò quan trọng “, ông nói.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *