Với quyết tâm nâng hạng lên vị thế thị trường mới nổi vào năm 2025, thị trường trái phiếu Việt Nam cần được nâng cấp. Bà Nguyễn Thị Minh, trưởng bộ phận nghiên cứu và phát triển khách hàng cá nhân tại Yuanta Securities Việt Nam, phát biểu. VIRHazy Tran về việc giải quyết các hạn chế về sở hữu nước ngoài và hướng tới sự phát triển thành công.
Nhà đầu tư nước ngoài ròng Doanh thu tháng 6 đạt mức cao kỷ lục 691,33 triệu USD. Ông có kỳ vọng các ngân hàng sẽ tăng lãi suất tiền gửi trong nửa cuối năm nay để giảm doanh thu thuần kéo dài như vậy?
Nguyễn Thị Minh, Trưởng phòng Nghiên cứu và Phát triển Khách hàng Cá nhân tại Yuanta Securities Việt Nam |
Có 2 nguyên nhân chính khiến khối ngoại bán ròng. Nguyên nhân thứ nhất là áp lực tỷ giá tăng cao khi tỷ giá đã tăng gần 5% kể từ đầu năm. Nguyên nhân thứ hai là hiệu quả hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam kém hiệu quả so với thị trường chứng khoán Mỹ, châu Âu và một số thị trường châu Á.
Tôi kỳ vọng tỷ giá sẽ hạ nhiệt sau tháng 9 khi Cục Dự trữ Liên bang bắt đầu cắt giảm lãi suất và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể sớm tăng lãi suất điều hành khi lãi suất tiền gửi ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng lên. Do đó, doanh thu thuần nước ngoài có thể giảm dần trong quý 3 hoặc sau tháng 9.
Cần những giải pháp nào để phát triển thành công Việt Nam trở thành thị trường mới nổi thu hút vốn nước ngoài?
Biên lai lưu ký không biểu quyết (NVDR) là một công cụ giúp duy trì tỷ lệ phòng cho nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường Thái Lan trong thời gian dài. Thị trường Thái Lan gặp may vì khi mới nâng hạng lên thị trường mới nổi, các quỹ tổ chức chưa chú trọng đến tỷ lệ sở hữu nước ngoài. Tuy nhiên, vào năm 2006, các quỹ chỉ số bắt đầu áp đặt các điều kiện về tỷ lệ sở hữu nước ngoài. Vào thời điểm đó, Thái Lan đã tránh được điều này bằng cách áp dụng NVDR, một phương pháp vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang phải đối mặt với tình trạng tương tự như thị trường chứng khoán Thái Lan khi mới bước vào giai đoạn thị trường mới nổi. Vì vậy, thị trường chứng khoán Việt Nam nên học theo mô hình Thái Lan và áp dụng ngay NVDR như một giải pháp tạm thời nhằm đáp ứng tiêu chí về tỷ lệ sở hữu nước ngoài.
Nhìn vào thị trường trái phiếu Thái Lan, NVDR có thanh khoản trung bình là 21% trong các giao dịch thị trường hàng ngày. Vì vậy, NVDR sẽ chỉ định hai giải pháp.
Thứ nhất, tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong ngắn hạn. Bởi việc giải quyết vấn đề này trên thị trường chứng khoán Việt Nam cần rất nhiều thời gian vì có những luật chồng chéo như Luật Công ty và Luật Đầu tư mà một mình Bộ Tài chính không thể khắc phục được. Thứ hai, NVDR sẽ gia tăng giá trị cho thị trường tài chính vì tại thị trường Thái Lan, NVDR lên tới 21%.
Tại sao thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay không nên triển khai mô hình NVDR từ các nước khác? Nhưng Thái Lan?
Philippines cũng sử dụng mô hình NVDR nhưng thất bại do thanh khoản thấp. Mô hình NVDR ở Philippines được công bố và quản lý bởi các công ty riêng lẻ. Đối với NVDR, chúng giống như những cổ phiếu có bảng niêm yết riêng, tương tự như chứng quyền có bảo đảm và được quản lý bởi hội đồng quản trị.
Một vấn đề khác là tỷ lệ tự do chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán Việt Nam, tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển đổi so với tổng số cổ phiếu đang lưu hành. Trong khi dư địa sở hữu nước ngoài đã hạn chế thì tỷ lệ thả nổi vẫn còn hẹp. Đây là vấn đề đáng lo ngại hiện nay trên thị trường chứng khoán Việt Nam bởi cơ sở nhà đầu tư cá nhân nắm giữ một lượng lớn và mặc dù lãi suất thả nổi có vẻ cao nhưng thực tế có thể liên quan đến hội đồng quản trị.
Vì vậy, lãi suất thả nổi thực tế là rất thấp. Điều này một lần nữa liên quan đến việc giải quyết vấn đề tỷ lệ sở hữu nước ngoài. Điều này cho thấy Việt Nam nên noi gương Thái Lan và nhanh chóng áp dụng NVDR để giải quyết vấn đề này.
Lộ trình nào cho thị trường chứng khoán Việt Nam? Thái Lan có nên sử dụng mô hình NVDR khi tỷ lệ NVDR giảm ở Thái Lan?
Ban đầu, NVDR ra đời nhằm giải quyết các vấn đề nêu trên, nhưng theo thời gian, người ta bắt đầu đánh giá cao quyền sở hữu bằng cổ phần trong hoạt động của công ty. Đây là nhược điểm lớn nhất của NVDR. Ở Thái Lan, thị trường chứng khoán đã phát triển đến mức các cá nhân phải có quyền quyết định trong hoạt động của công ty.
Đối với Việt Nam, lộ trình nên bám sát thị trường trái phiếu Thái Lan. Đầu tiên, cần giải quyết vấn đề tỷ lệ sở hữu nước ngoài với NVDR. Sau này, khi thị trường ổn định và đủ lớn, Việt Nam có thể hạ dần tỷ lệ NVDR. Nếu NVDR không được sử dụng, sẽ mất nhiều thời gian để giải quyết bài toán tỷ lệ sở hữu nước ngoài liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh doanh. Ngay cả việc nâng tỷ lệ sở hữu tại các ngân hàng từ 30 lên 35% vẫn chưa được giải quyết trong nhiều năm, cho thấy các lĩnh vực kinh doanh khác cũng sẽ gặp khó khăn tương tự.
Thêm quyền phát hành để tăng vốn trái phiếu
Các công ty trái phiếu Việt Nam đang nhanh chóng huy động vốn để tăng cường năng lực tài chính, ứng phó với những thay đổi của thị trường và kỳ vọng cải thiện điều kiện của các thị trường mới nổi. |