Việt Nam cần mở rộng mạng lưới sân bay để giảm áp lực lên cơ sở hạ tầng

Các chuyên gia giao thông trong nước bày tỏ lo ngại về nhu cầu tăng công suất sân bay do áp lực lên cơ sở hạ tầng hiện hữu, chủ yếu ở hai sân bay lớn nhất là Hà Nội và Tân Sơn Nhất của TP.HCM.

Trong 10 năm trở lại đây, ngành hàng không Việt Nam có tốc độ phát triển mạnh mẽ, đứng trong nhóm các nước có ngành hàng không phát triển nhanh nhất thế giới, khiến các sân bay luôn quá tải, đặc biệt là hai sân bay nói trên.

Vì vậy, giải pháp tốt nhất là xây dựng các sân bay mới và mở rộng một số sân bay hiện có, chuyên gia giao thông vận tải Nguyễn Hú Đức cho biết.

Ông cho rằng đến năm 2020, đường băng tại sân bay Nội Bài và Đồn Sơn Nhất được nâng cấp để nâng cao năng lực và giảm ùn tắc tại hai sân bay này. Tuy nhiên, việc cải tạo các sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất là giải pháp ngắn hạn, trong khi cần phải có kế hoạch tổng thể.

Mùa hè năm ngoái, các hoạt động bay được thiết lập lại sau một thời gian dài ngừng hoạt động do Covid-19 đã áp đảo cả hai sân bay ngay cả sau khi cải tạo đường băng.

Tăng trưởng mạnh nhưng quá ít sân bay

Theo Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (IATA), Việt Nam đã đứng đầu danh sách 25 quốc gia có thị trường hàng không nội địa phục hồi nhanh nhất sau đại dịch Covid-19. Trước khi đại dịch bùng phát, lĩnh vực hàng không của nước này đang tăng trưởng với tốc độ hai con số, trung bình 15,8% mỗi năm.

Tại Việt Nam, các hãng hàng không và sân bay đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của đất nước nói riêng và cả nước nói chung. Năm 2019 (trước đại dịch Covid-19), lĩnh vực hàng không đã đóng góp 12,5 tỷ USD vào GDP của đất nước, bao gồm cả chi tiêu của hành khách.

IATA dự đoán đến năm 2035, các hãng hàng không Việt Nam sẽ phục vụ 136 triệu lượt hành khách và đóng góp 23 tỷ USD vào GDP.

Hiện cả nước có 22 sân bay đang hoạt động. Theo quy hoạch tổng thể, tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam sẽ có 31 sân bay, trong đó có 14 sân bay quốc tế và 17 sân bay nội địa, là một trong những quốc gia có mật độ sân bay thấp nhất thế giới.

Trong khu vực Đông Nam Á, số lượng 22 sân bay của Việt Nam rất ít so với Thái Lan, Malaysia, Philippines và Indonesia với lần lượt là 38 sân bay, 66 sân bay, 70 sân bay và 683 sân bay.

Một nghiên cứu cẩn thận là cần thiết

Dr. Theo ông Nguyễn Hú Đức, sân bay không chỉ là điểm trung chuyển quan trọng của người và hàng hóa mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu, du lịch và thu hút đầu tư, thúc đẩy kinh tế đất nước.

“Đối với một quốc gia có địa hình 3/4 là đồi núi, vận tải hàng không được coi là giải pháp giao thông hợp lý hơn khi đầu tư vào hạ tầng giao thông đường bộ hoặc đường sắt đắt hơn các nước có địa hình bằng phẳng”, ông Đức nói với Hanoi Times.

“Tuy nhiên, việc đầu tư xây dựng sân bay cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng và đánh giá mục tiêu. Hiện tại, hầu hết các sân bay nhỏ của Việt Nam đang hoạt động thua lỗ do số lượng chuyến bay ít. Vì vậy, việc lựa chọn địa điểm xây dựng sân bay và cách thức xây dựng sẽ như thế nào. được điều tra kỹ lưỡng bởi một nhóm các chuyên gia đầu ngành ”, ông nhấn mạnh.

Tiếp lời Đức, chuyên gia hàng không Nguyễn Thiện Tống khẳng định, cần xây dựng quy hoạch mạng lưới cảng hàng không trên toàn lãnh thổ Việt Nam một cách hợp lý.

Vị chuyên gia cảnh báo nguy cơ tham nhũng đất đai tại các dự án xây dựng sân bay nếu không có sự điều tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ của các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan liên quan.

Nguồn: Hanotimes

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *