Ngày 3 tháng 1 – ngày 15 tháng 8 năm 2012
Các vùng nước xung quanh Nam Cực hấp thụ nhiều carbon từ khí quyển hơn lượng chúng thải ra, đồng thời là một bể chứa carbon mạnh mẽ và là vùng đệm quan trọng cho việc phát thải khí nhà kính.
Các quan sát mới từ máy bay nghiên cứu chỉ ra rằng Nam Đại Dương hấp thụ nhiều carbon từ khí quyển hơn lượng thải ra, khẳng định rằng nó là một bể chứa carbon mạnh mẽ và là vùng đệm quan trọng đối với tác động của khí thải nhà kính do con người gây ra. Nghiên cứu và mô hình trước đây khiến các nhà nghiên cứu không chắc chắn về lượng carbon dioxide (CO.) Trong khí quyển2) được hấp thụ bởi các vùng nước lạnh lưu thông quanh Nam Cực.
trong một NASA-hỗ trợ Nghiên cứu đã được xuất bản trong một Khoa học Vào tháng 12 năm 2021, các nhà khoa học đã sử dụng các quan sát trên máy bay về carbon dioxide trong khí quyển “để chỉ ra rằng dòng chảy ròng hàng năm của carbon vào đại dương ở phía nam 45 ° S là đáng kể, với sự hấp thụ mạnh hơn vào mùa hè và ít thải ra vào mùa đông hơn so với các quan sát gần đây”. Họ phát hiện ra rằng nước trong khu vực hấp thụ lượng carbon nhiều hơn khoảng 0,53 petagram (530 triệu tấn) so với lượng carbon thải ra mỗi năm.
Matthew Long, tác giả chính của nghiên cứu và là một nhà khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Khí quyển Quốc gia (NCAR) giải thích: “Các phép đo trong không khí cho thấy sự giảm CO2 trong khí quyển thấp hơn bề mặt Nam Đại Dương, cho thấy đại dương hấp thụ carbon. ). Các quan sát máy bay từ năm 2009 đến năm 2018 đã được thu thập trong ba lần thử nghiệm thực địa, bao gồm sứ mệnh Chụp ảnh Khí quyển (ATom) của NASA vào năm 2016.
Hoạt ảnh và hình ảnh tĩnh trên trang này hiển thị các khu vực mà carbon dioxide (màu xanh lam) đã được hấp thụ và thải ra (màu đỏ) từ đại dương toàn cầu vào năm 2012. (Cuộn đến 1:00 để tập trung vào Nam bán cầu.) Dữ liệu đến từ ECCO – Mô hình Hóa sinh Đại dương Phổ quát của Darwin. Nghiên cứu được tài trợ bởi Quỹ Khoa học Quốc gia, NASA, và Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia.
Khi lượng khí thải carbon dioxide do con người thải ra vào bầu khí quyển, đại dương sẽ hấp thụ một phần khí, một quá trình có thể làm chậm quá trình tích tụ carbon trong khí quyển và làm tăng nhiệt độ toàn cầu liên quan. Một phần của điều này là do trỗi dậy nước lạnh từ sâu trong đại dương. Khi ở trên bề mặt, nước lạnh, giàu chất dinh dưỡng sẽ hấp thụ carbon dioxide2 từ khí quyển – thường là với sự trợ giúp của các sinh vật quang hợp được gọi là Thực vật phù du– trước khi bạn chìm một lần nữa.
Các mô hình máy tính chỉ ra rằng 40% lượng khí cacbonic do con người tạo ra là2 Trong các đại dương trên thế giới, ban đầu nó được hút từ khí quyển vào Nam Đại Dương, khiến nó trở thành một trong những bể chứa carbon quan trọng nhất trên hành tinh của chúng ta. Nhưng đo lưu lượng hoặc trao đổi carbon dioxide2 Từ trên không đến dưới biển, đó là một thách thức.
Một số nghiên cứu trước đây về lưu lượng carbon ở Nam Đại Dương chủ yếu dựa vào các phép đo độ axit của đại dương – nồng độ này tăng lên khi nước biển hấp thụ carbon dioxide.2– Chụp bằng máy trôi, máy trôi. Nghiên cứu mới sử dụng máy bay để đo sự thay đổi nồng độ carbon dioxide2 trong bầu khí quyển trên đại dương.
“Bạn không thể đánh lừa bầu không khí,” Long nói. “Mặc dù các phép đo từ bề mặt đại dương và từ đất liền là quan trọng, nhưng chúng quá khan hiếm để cung cấp một bức tranh đáng tin cậy về thông lượng carbon trong khí quyển và nước biển. Tuy nhiên, khí quyển có thể kết hợp các thông lượng trên các khu vực rộng lớn.”
Đối với nghiên cứu mới, các nhà nghiên cứu đã sử dụng các phép đo trong không khí từ ba thử nghiệm thực địa: ATom, HIPPO và ORCAS. Nói chung, các thí nghiệm thực địa đã chụp được một loạt các bức ảnh chụp nhanh (hoặc cái nhìn thoáng qua) về sự thay đổi theo chiều dọc của carbon dioxide qua các độ cao khác nhau của khí quyển và các mùa khác nhau. Ví dụ, trong chiến dịch ORCAS vào đầu năm 2016, các nhà khoa học đã quan sát thấy lượng carbon dioxide giảm2 nồng độ trong quá trình hạ cánh và cũng phát hiện nhiễu động mạnh gần bề mặt đại dương, cho thấy sự trao đổi khí. Các tính năng như thế này, cùng với một số mô hình khí quyển, đã giúp nhóm ước tính tốt hơn thông lượng carbon.
Video từ Phòng hình ảnh hóa Khoa học của NASA và dữ liệu từ Mô hình Hóa sinh Đại dương Toàn cầu ECCO-Darwin.