Ngày 14/6, Bộ Thông tin và Truyền thông đã phê duyệt “Chiến lược phát triển hệ thống cáp quang quốc tế Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035”.
Chiến lược nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ thống cáp quang quốc tế của Việt Nam như một thành phần quan trọng của cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, ưu tiên đầu tư hiện đại để đảm bảo dung lượng cực lớn và băng thông siêu rộng cho kết nối quốc tế. Mục tiêu là hỗ trợ tham vọng của Việt Nam trở thành trung tâm dữ liệu khu vực.
Chiến lược nhấn mạnh việc xây dựng quyền tự chủ trong việc lắp đặt, triển khai và bảo trì các tuyến cáp quang quốc tế nhằm đảm bảo an ninh cho mạng Internet Việt Nam. Mục tiêu là đáp ứng đầy đủ nhu cầu kết nối quốc tế phục vụ phát triển kinh tế, xã hội số và an ninh, quốc phòng.
Để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của hệ thống cáp quang quốc tế của Việt Nam, các doanh nghiệp nhà nước được khuyến khích tiên phong sử dụng cáp quang quốc tế, đồng thời khuyến khích các công ty trong và ngoài nước tham gia đầu tư, xây dựng.
Tầm nhìn chiến lược
Đến năm 2035, hệ thống cáp quang quốc tế của Việt Nam sẽ dẫn đầu về khối lượng, công suất và chất lượng. Sự phát triển này được kỳ vọng sẽ thu hút đầu tư, hỗ trợ các trung tâm dữ liệu lớn và thúc đẩy dịch vụ điện toán đám mây, đưa Việt Nam trở thành một phần không thể thiếu của cơ sở hạ tầng kỹ thuật số khu vực và toàn cầu.
Các kết nối đa dạng, an toàn và ổn định được lên kế hoạch đưa Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng về cơ sở hạ tầng truyền tải dữ liệu và kỹ thuật số, thúc đẩy nền kinh tế và xã hội kỹ thuật số của đất nước.
Chiến lược nêu rõ việc triển khai ít nhất 10 tuyến cáp quang biển mới với công nghệ hiện đại vào năm 2030, trong đó có ít nhất 15 tuyến có công suất ít nhất 350 tbps. Ít nhất hai trong số các tuyến này sẽ thuộc sở hữu của Việt Nam, kết nối trực tiếp với các trung tâm kỹ thuật số trong khu vực.
Hệ thống cáp quang biển dưới biển của Việt Nam sẽ được triển khai một cách chiến lược để bao phủ tất cả các hướng khả thi về mặt kỹ thuật, bao gồm cả Biển Đông và Biển Bắc, Biển Nam.
Ngoài ra, đến năm 2030 có ít nhất 2 tuyến cáp quang mặt đất quốc tế đi vào hoạt động, tổng dung lượng cáp quang mặt đất quốc tế đạt ít nhất 15% dung lượng hệ thống cáp quang biển.
Đảm bảo an toàn và ổn định
Bộ Thông tin và Truyền thông đã đưa ra 4 nhóm giải pháp để đạt được các mục tiêu này: Hệ thống và Thiết bị đo đạc; hợp tác trong nước; Hợp tác quốc tế; và nghiên cứu và phát triển.
Đến năm 2027, Việt Nam đặt mục tiêu triển khai và vận hành 4 tuyến cáp quang biển mới, nâng tổng công suất lên ít nhất 134 Tbps. Những nỗ lực này sẽ duy trì các trung tâm kỹ thuật số quan trọng ở Singapore, Hồng Kông và Nhật Bản, định kỳ xem xét các điểm kết nối để điều chỉnh khi cần thiết.
Từ năm 2028 đến năm 2030, sẽ triển khai thêm 6 tuyến cáp quang biển, trong đó có 1 tuyến thuộc sở hữu của Việt Nam, nâng tổng công suất thiết kế lên ít nhất 350 Tbps. Ngoài ra, một tuyến cáp quang mặt đất quốc tế khác cũng sẽ đi vào hoạt động, đảm bảo khả năng kết nối đa dạng và mạnh mẽ.
Chiến lược nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng các phương án kết nối trực tiếp tới các trung tâm kỹ thuật số và mô hình liên doanh cho các tuyến cáp quang Biển Nam. Các kết nối đa chiều tới nhiều trung tâm kỹ thuật số sẽ được ưu tiên và xem xét định kỳ để đảm bảo các hướng kết nối nhất quán.
Để quản lý sự tăng trưởng nhu cầu đột ngột, kế hoạch triển khai nhanh chóng các tuyến cáp quang biển mới sẽ được phát triển trong vòng hai năm. Cục Viễn thông thực hiện báo cáo, đánh giá định kỳ để điều phối, triển khai chiến lược và điều chỉnh, hoàn thiện các chức năng cốt lõi.
Hiện Việt Nam có 2 tuyến cáp đất liền nối Hong Kong và Singapore với tổng dung lượng 5 Tbps và 5 tuyến cáp quang biển quốc tế với tốc độ hơn 20 Tbps đang sử dụng và tổng dung lượng 34 Tbps.
Trung bình mỗi năm xảy ra 15 sự cố cáp quang biển, thời gian sửa chữa mỗi sự cố từ 1-3 tháng. Có thời điểm, sự cố khiến dung lượng kết nối internet quốc tế bị mất 60% trong gần hai tháng.
B.V
“Người hâm mộ truyền hình khiêm tốn đến mức khó chịu. Tổng chuyên gia Twitter. Người đam mê âm nhạc cực đoan. Người sành Internet. Người yêu truyền thông xã hội”.