Theo đó, thị phần xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trên thế giới chiếm 6,4% thị phần toàn cầu, vượt qua 31,6% của Trung Quốc và 27,9% của Châu Âu.
Chuyên gia kinh tế Huỳnh Thanh Điền cho biết, 3 thị trường xuất khẩu hàng dệt may chính của Việt Nam là châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Đây là ba thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới, lần lượt chiếm 34,1%, 16,8% và 5,3% thị phần toàn cầu.
Thực tế cho thấy, ngành dệt may Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 40,4 tỷ đô la Mỹ, chiếm 12% kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đến nửa đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt khoảng 23 tỷ đô la Mỹ, tăng 21,6 phần trăm. So với cùng kỳ năm 2021.
Tuy nhiên, ngành dệt may của cả nước cũng đang phải đối mặt với nhiều rủi ro và thách thức. Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ Hội nhập Quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh, Mr. Ông Huỳnh Min Vũ cho biết nhu cầu tiêu dùng hiện đang giảm dần tại các thị trường tiêu thụ hàng dệt may trọng điểm như Mỹ và EU do tác động của lạm phát. Tệ hơn, diễn biến xung đột Nga-Ukraine đã đẩy giá nguyên liệu đầu vào tăng cao.
Ngoài ra, nguy cơ bùng phát trở lại của đại dịch Covid-19 liên quan đến các phân nhóm SARS-CoV-2 là cao. Điều này đã khiến nhiều quốc gia và khu vực, trong đó có các đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan phải áp dụng các biện pháp chống dịch nghiêm ngặt, ảnh hưởng lớn đến chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản phẩm dệt may của cả nước.
Mặt khác, biến động tỷ giá hối đoái trong hoạt động xuất nhập khẩu, tình trạng thiếu lao động sau dịch bệnh hay nhu cầu phủ xanh bông, vải, sợi, dệt may của các nước.
Một Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) mới có tác động tiêu cực đáng kể đến hoạt động của ngành. Một yếu tố quan trọng khác là các công ty dệt may nói riêng và các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung phải đối mặt với rủi ro bị điều tra và sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại.
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế thuộc Ủy ban Giải quyết Thương mại Bộ Công Thương Việt Nam Mr. Phan Khánh nhấn mạnh, Việt Nam tham gia và thực hiện 15 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với khoảng 60 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tác động của việc tăng cường bảo hộ các ngành sản xuất trong nước của các nước nhập khẩu, cũng như việc gian lận xuất xứ hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế quan trong các FTA mà Việt Nam tham gia sẽ làm tăng khả năng sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Cho đến nay, số vụ giải quyết thương mại do nước ngoài và khu vực khởi kiện đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam là hơn 210 vụ. Trong đó, có 22 vụ việc liên quan đến sản phẩm dệt may, chủ yếu ở Thổ Nhĩ Kỳ, chủ yếu là các biện pháp chống bán phá giá và bảo hộ, Hoa Kỳ, Ấn Độ. Những trường hợp này cho thấy một số khó khăn mà các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam gặp phải.
Ngoài ra, ngành dệt may Việt Nam, đặc biệt là sợi tái chế, chủ yếu xuất khẩu gần 60% kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc, nhưng Trung Quốc vẫn đang thực hiện chính sách không covid, dẫn đến nguy cơ gián đoạn thị trường.
Trong đại dịch Covid-19, ngành dệt may gặp rất nhiều khó khăn; Tệ hơn nữa, có thời điểm 60.000 công nhân bị sa thải.
Ngoài ra, ngành dệt may phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu đầu vào nhập khẩu. Hiện tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu đã đạt 55% toàn ngành.
Hiện tại, các doanh nghiệp không thể nhận đơn đặt hàng dài hạn do rủi ro đơn giá giảm cùng với giá đầu vào tăng. Nhiều doanh nghiệp cho rằng các cơ quan hữu quan cần có chính sách khuyến khích đầu tư hoặc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực phát triển nguyên liệu.
Đặc biệt, các doanh nghiệp trong nước có yếu kém nội tại có thể liên doanh, liên kết, mở rộng quy mô với các doanh nghiệp khác, dần tự chủ sản xuất để tránh phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nhập khẩu.