Giải quyết vấn đề bền vững an sinh xã hội của Việt Nam

Tác giả: Suiwah Leung, ANU

Khi nền kinh tế phát triển, chính sách kinh tế và chính sách xã hội có xu hướng chồng chéo lên nhau. Một trường hợp điển hình là báo cáo về tình trạng người dân xếp hàng dài ở Thành phố Hồ Chí Minh để nhận lại tiền đóng bảo hiểm xã hội sau khi mất việc làm trong đại dịch Covid-19.

Công nhân tại một bãi tái chế xe máy thực hiện bảo trì trước nhà của họ ở Việt Nam, ngày 3 tháng 5 năm 2021 (Ảnh: Reuters/Chris Humphrey).

Người lao động trong khu vực chính thức coi khoản đóng góp của họ cho Chương trình Bảo hiểm Thu nhập Hưu trí – thường được gọi là 'Bảo hiểm Xã hội' – là khoản tiết kiệm của họ cho thời kỳ khó khăn. Điều này giúp thúc đẩy nhu cầu và cải thiện quản lý kinh tế vĩ mô ngắn hạn. Tuy nhiên, việc rút tiền sớm khiến các kế hoạch tiết kiệm hưu trí và bảo hiểm không bền vững về mặt tài chính về lâu dài. Đây là thách thức mà Chính phủ Việt Nam phải đối mặt trong việc xây dựng hệ thống an sinh xã hội đồng bộ với khát vọng trở thành nước có thu nhập trung bình và trên trung bình.

Hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam bao gồm ba lĩnh vực gần như không có sự phối hợp: trợ giúp xã hội, bảo hiểm xã hội và xóa đói giảm nghèo. Nguồn thu từ thuế để tài trợ cho trợ giúp xã hội và xóa đói giảm nghèo, trong khi các khoản đóng góp bắt buộc của người lao động và người sử dụng lao động trong khu vực chính thức sẽ tài trợ cho bảo hiểm xã hội.

Cả phạm vi bao phủ và tài chính của trợ giúp xã hội đều thấp hơn so với các nước so sánh trong khu vực và toàn cầu. Việt Nam Chi tiêu xung quanh 0,66% GDP dành cho trợ cấp xã hội, không bao gồm trợ cấp bảo hiểm y tế, so với 1% ở Đông Á và Thái Bình Dương và 0,8% ở khu vực Nam Á.

Trợ giúp xã hội Bao phủ bên dưới 20% lực lượng lao động Việt Nam, hơn 40% ở khu vực châu Á đang phát triển. Lợi ích của nó Chỉ phản ánh xung quanh Chi tiêu tiêu dùng trung bình hàng tháng của hộ gia đình là 5% đối với nhóm nghèo nhất, so với mức trung bình 19-20% ở các nước có thu nhập trung bình thấp. Không lập chỉ mục – Phúc lợi trợ giúp xã hội giảm theo thời gian cả về giá trị tương đối và thực tế.

Về xóa đói giảm nghèo, mặc dù Việt Nam đã thành công trong việc đưa người dân thoát khỏi cảnh nghèo tuyệt đối thông qua tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm, nhưng vẫn có những nhóm nghèo cùng cực. Những hoạt động này chủ yếu tập trung ở các dân tộc thiểu số ở những vùng có địa hình khó khăn, cần được quan tâm và nguồn lực đặc biệt.

Chế độ bảo hiểm xã hội hiện bao gồm các khoản đóng góp bắt buộc của người sử dụng lao động và người lao động. Khi tăng gấp đôi vai trò của bảo hiểm thất nghiệp, các chương trình An sinh xã hội trở nên không bền vững để đảm bảo thu nhập hưu trí dài hạn.

Điều đáng lo ngại là Chương trình Bảo hiểm xã hội chỉ bảo hiểm cho người lao động trong khu vực chính thức. Năm 2018, 76% tổng số lao động – hoặc 55-60% tổng số lao động phi nông nghiệp – làm việc trong khu vực phi chính thức và không có hợp đồng lao động. Thường không có bảo hiểm xã hội. Ước tính của Tổng cục Thống kê Việt Nam cho thấy tính phi chính thức Tương tự cấp độ cao hơn 68,5% vào năm 2021.

Do những khó khăn trong việc đo lường tình trạng phi chính thức, sự khác biệt giữa năm 2018 và 2021 không cho thấy xu hướng giảm. Trên thực tế, tình trạng phi chính thức ở khu vực nông thôn đã gia tăng do đại dịch Covid-19. Đô thị hóa dường như không làm giảm tình trạng phi chính thức trong việc làm – sự tăng trưởng của nền kinh tế tự do ở khu vực thành thị có thể mở rộng xu hướng này. Người ta ước tính rằng chưa đến một nửa lực lượng lao động của Việt Nam (khoảng 43%) sẽ làm việc theo hợp đồng chính thức vào năm 2040. Việc mở rộng các chương trình bảo hiểm xã hội được tài trợ bởi các khoản đóng góp bắt buộc của cả người sử dụng lao động và người lao động cho khu vực phi chính thức rộng lớn sẽ là một thách thức.

Năm 2006, chính phủ đưa ra Chương trình đóng góp tự nguyện, một nỗ lực nhằm tuyển dụng một số lao động phi chính thức. Tuy nhiên, tỷ lệ chấp nhận vẫn còn thấp. Kế hoạch này chỉ dành cho khoảng 300.000 công nhân vào năm 2018. Những biện pháp khuyến khích tốt hơn – có lẽ dưới hình thức đóng góp phù hợp bằng nguồn tài trợ từ thuế – là điều cần thiết cho một chương trình như vậy.

Tuy nhiên, với tình trạng dân số Việt Nam đang già đi, một số đóng góp nhằm đảm bảo thu nhập hưu trí của người lao động là cần thiết để đảm bảo tính bền vững tài chính của kế hoạch trong dài hạn. Kế hoạch đóng góp cũng sẽ tạo ra một nguồn vốn trong nước cho đầu tư trong nước dài hạn.

Trợ giúp xã hội và bảo hiểm xã hội đòi hỏi nghĩa vụ thuế cao hơn trong trung hạn và cải cách sâu hơn hệ thống lương hưu trong dài hạn. Sự chồng chéo giữa các chính sách kinh tế, xã hội và mức chi tiêu thuế cho an sinh xã hội tương đối thấp của Việt Nam so với các nước trong khu vực là lý do chính đáng cho cam kết như vậy.

Việt Nam gần đây đã giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng (VAT) từ 10% xuống 8%. Trong trung hạn, Việt Nam có thể đảo ngược mức giảm này và cùng Indonesia, Philippines tăng mức thuế VAT lên 11-12%. Nhưng có rất ít dư địa để tăng thuế thu nhập cá nhân. Thuế suất cận biên thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam là 35% đã là mức cao so với tiêu chuẩn khu vực và việc thu thuế thu nhập cá nhân từ người lao động trong khu vực phi chính thức có quy mô lớn có thể gặp nhiều thách thức.

Mặc dù có khu vực phi chính thức lớn nhưng Việt Nam có mức độ tiếp cận kỹ thuật số cao so với các nước trong khu vực ASEAN. Vì kết nối là chìa khóa để thiết kế và cung cấp các dịch vụ xã hội, nên việc tiếp cận kỹ thuật số nhiều hơn sẽ giúp việc bao phủ và cung cấp các chương trình bảo trợ xã hội có mục tiêu và hiệu quả hơn.

Mục tiêu dài hạn là phát triển một chương trình an sinh xã hội phát triển cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia và cải thiện chính sách kinh tế của quốc gia đó. Việt Nam đã có một khởi đầu đầy hứa hẹn nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm.

Suiwah Leung là Phó Giáo sư Danh dự tại Trường Chính sách Công Crawford, Đại học Quốc gia Australia.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *