|
Nuyen Tho Bản là một nghệ nhân dệt lụa ở làng Nậm Khao, tỉnh Thái Bản. Ảnh VNS của Tố Như |
Tố Nhuụ
THÁI BÌNH – Làng nghề dệt lụa truyền thống ở xã Nam Cao, tỉnh Thái Bình sau một thời gian “ngủ đông” nay đã được thay thế bằng những tấm lụa không xuất khẩu nhưng giúp thu hút khách du lịch đến với vùng đất được mệnh danh là “” đất lúa”.
Nguyễn Thị Bốn, một trong những nghệ nhân dệt ư hàng thế kỷ, không thể nhớ chính xác mình bắt đầu làm nghề này từ khi nào.
Pan kể: “Tôi đã nghe thấy tiếng dệt lụa từ khi mới sinh ra. Khi lớn lên, tôi thấy bố mẹ dệt lụa hàng ngày và dần dần tôi cũng làm như vậy.
“Cho đến bây giờ, tôi vẫn đam mê nghề và mong muốn con cháu tiếp nối nghề này”, ông Pan nói.
Đối với Bốn, làm nghề này không chỉ là thu nhập mà còn là niềm vui.
Nguyễn Thị Mùi, một thợ dệt, cho biết cô rất vui khi thấy nghề truyền thống hồi sinh vì cũng như bao thợ dệt khác, cô vẫn tiếp tục gắn bó với nghề của tổ tiên.
“60 năm cuộc đời, tôi chưa bao giờ thấy làng phồn vinh như ngày nay và thợ dệt cũng được kính trọng như nghệ nhân”, ông Mới nói.
Từ “hạnh phúc” không chỉ được nhắc đến bởi Bốn và Mùi mà còn bởi những nghệ nhân, thợ dệt khác sinh ra, lớn lên và gắn liền với nghề dệt lụa Nam Cao. Bởi đối với họ đó không chỉ là công việc, thu nhập mà là sự hồi sinh của một làng nghề từng bị tuyệt chủng và tưởng chừng như đã bị thất lạc hoàn toàn.
Sự phục hưng này khiến hầu hết những người ở độ tuổi 70 trở lên đều yêu nghề, yêu bản thân hơn và mong muốn góp phần gìn giữ nghề truyền thống sau này để quê hương trở thành một vùng quê đáng sống hơn.
Theo các nghệ nhân, làng dệt lụa Nam Kao được thành lập cách đây 400 năm và nổi tiếng khắp cả nước về nghề nuôi tằm và dệt lụa tussor.
Lụa Nam Cao nổi tiếng khắp cả nước nhờ các sản phẩm thủ công, bao gồm nhiều công đoạn từ lựa chọn nguyên liệu thô đến hoàn thiện thành phẩm, đòi hỏi sự cần cù, chính xác và tinh tế.
Người ta phải trải qua nhiều công đoạn mới có được vải lụa. Người ta phải trải qua những tháng ngày vất vả trồng dâu, nuôi tằm, nuôi tằm, hái tơ rồi dệt vải.
Người thợ luộc kén trong nồi rồi ủ trong trấu từ 4 đến 6 tiếng cho đến khi tơ của cùi mềm ra thì ngâm vào nước lạnh rồi xe thành sợi tơ.
Sợi tơ sau khi được kéo và vo tròn, nước được vắt ra khỏi sợi tơ, đặt trên một guồng quay để sấy khô, xoắn lại và cuối cùng được đưa đi dệt.
Mỗi ngày, một người làm việc vất vả từ sáng đến tối chỉ dệt được 5-7m lụa.
Tơ lụa Nam Kao chủ yếu được làm thủ công.
Trước đó, sản phẩm lụa, lanh Nam Cao chủ yếu được may thành vải để tiêu dùng trong nước và sau đó xuất khẩu.
Cách đây 20 năm, làng nghề còn rất thịnh vượng. Sản phẩm tiếp tục được xuất khẩu sang Lào và Thái Lan. Dân làng rất giàu có.
Tuy nhiên, từ những năm 1990 đến những năm 2010, Làng nghề Nam Cao hoạt động cầm chừng do thị trường còn hẹp, sản phẩm không cạnh tranh được với vải, quần áo sản xuất công nghiệp. Nhiều thợ dệt Nam Kao đã chuyển sang làm nghề khác.
Trận sóng thần ở Phuket, Thái Lan năm 2012 đã cuốn trôi toàn bộ nhà cửa, hàng hóa và tài sản của các cơ sở kinh doanh tơ lụa của khách hàng Nam Kao. Họ ngừng nhập hàng lụa Nam Khao và trả nợ. Thế là gia đình dệt Nam Kao mất khách hàng và tiền bạc.
Nghề thủ công truyền thống đang dần biến mất khiến những nghệ nhân gắn bó với lụa cả đời phải tiếc nuối từ bỏ nghề.
Trong khi đó, chàng trai đã rời bỏ quê hương và không bao giờ quay trở lại.
Từ một làng nghề hơn 400 năm, Nam Khao Weaving đang dần biến mất, chỉ còn lại ba ngôi nhà.
Những khung cửi hàng trăm năm tuổi bỗng chốc bị bỏ hoang, phủ đầy bụi, thậm chí bị phá hủy để làm củi.
hồi sinh
|
Thanh niên làng Nam Kao đang học nghề tằm tơ và kéo sợi. Ảnh VNS của Tố Như |
Đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, làng bỗng “vui vẻ” trở lại khi Hợp tác xã dệt lụa Nam Kao được thành lập.
Câu chuyện xây dựng lại làng nghề bắt đầu từ Luang Thanh Hanhu, giám đốc hợp tác xã sở hữu thương hiệu Hunsilk.
“Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng một ngày nào đó mình sẽ gắn bó với nghề trồng dâu, nuôi tằm, kéo sợi, kéo tơ. Tuy nhiên, nghề đến với tôi như định mệnh”, Hạnh nói.
Ông Hạnh cho biết, trong bối cảnh công nghiệp hóa, máy móc dần thay thế con người và các sản phẩm tơ lụa khó giữ được “chất lượng” ban đầu trên thị trường.
“Vì thế, tôi trân trọng những sản phẩm thủ công và muốn lưu giữ cái hồn của lụa”, Hạnh nói.
Cô bắt đầu lại từ đầu bằng sự tin tưởng của mọi người, tiền bạc, đất đai và công nghệ. Nhưng bằng lòng trung thực và niềm đam mê của mình, Hạnh đã tập hợp được các thợ dệt và thuyết phục họ vào hợp tác xã.
Từ 3 gia đình tham gia ban đầu, đến nay hợp tác xã đã phát triển lên gần 300 thành viên.
“Tôi đã cứu được chiếc khung dệt bằng gỗ lim hàng trăm năm tuổi mà tôi là thợ dệt đầu tiên của làng Kao. Nó bị bỏ rơi trong chuồng bò, phủ đầy mạng nhện và vỏ sò”, Hạnh nhớ lại.
“Nếu tôi đến muộn năm ngày thì chiếc khung cửi này sẽ được dùng để nấu ăn.” bánh chưng (Bánh nếp)”, Hạnh nói với vẻ vui mừng, may mắn vì đã cứu được chiếc khung dệt trăm năm tuổi cho ra những mảnh lụa với những đường nét tinh xảo.
Cùng với chiếc khung dệt cổ này, hợp tác xã còn sưu tầm và mua hàng chục khung dệt.
Sự xuất hiện của Hợp tác xã dệt lụa Nam Khao có thể nói là cứu cánh để vực dậy làng nghề truyền thống và bắt đầu hành trình thứ hai mạnh mẽ hơn.
Trước đây, lụa, lanh Nam Cao chỉ có màu trắng ngà hoặc nhuộm nâu, không đa dạng về mẫu mã. Nhưng hiện nay tất cả các mặt hàng thủ công đều được nhuộm bằng nhiều màu sắc tự nhiên như đỏ, tím, xanh lá cây và vàng.
Hợp tác xã sản xuất nhiều sản phẩm khác nhau như vải lụa, khăn quàng cổ, quần áo, vòng tay, khăn trải giường thêu tay, khăn mặt và khăn tắm.
Với chiến lược “Chất lượng” và “Tin cậy”, Hợp tác xã đã phát triển chuỗi giá trị 16 công đoạn từ vùng nguyên liệu – sản xuất – tiêu thụ – xuất khẩu, trong đó vùng nuôi tằm nằm ở huyện Vũ Thộ.
Nguyên liệu kén được thu mua và cung cấp cho các hộ gia đình để chế biến các công đoạn sản xuất từ kéo sợi, cuộn sợi, xe sợi, dệt vải dưới sự hỗ trợ và tổ chức hợp tác.
Tỉ mỉ trong từng bước và xanh từ khâu sản xuất đến khách hàng, đồng thời coi khách hàng như đại sứ thương hiệu, Hanhsilk đủ tiêu chuẩn xuất khẩu của nhiều thị trường toàn cầu khắt khe như Châu Âu và được người dùng trong nước đón nhận.
Hợp tác xã không chỉ sản xuất nhiều sản phẩm đa dạng mà còn thúc đẩy phát triển du lịch làng nghề.
Hợp tác xã hy vọng sẽ đưa hàng trăm du khách trong nước và quốc tế đến làng giao lưu với các nghệ nhân để hiểu rõ hơn về nghề thủ công truyền thống nổi tiếng của tỉnh Thái Bản.
Theo ông Hạnh, sản phẩm lụa rất thân thiện với môi trường.
“Vì khăn quàng được dệt từ lụa nên khi không sử dụng nữa, chúng có thể được cắt ra và ủ phân. Sau vài tháng chúng ngấm vào đất, trong khi vải thông thường phải mất 200 năm mới phân hủy được”, ông Hạnh nói.
Ông nói: “Mọi thứ tự nhiên sẽ trở về với tự nhiên”.
Ông khiêm tốn nói: “Chúng tôi đang góp phần nhỏ bé vào việc hồi sinh các làng nghề. Chính các nghệ nhân là người thổi sức sống cho tơ lụa và thực sự hồi sinh các làng nghề”.
Để phát triển hơn nữa nghề thủ công của làng, hợp tác xã thường xuyên tổ chức các cuộc thi tay nghề cho thế hệ thanh niên tiếp nối nghề kéo sợi và dệt lụa, đặc biệt là ở Nam Khao.
Đó là cách để hợp tác xã bảo tồn các nghề thủ công truyền thống và lan tỏa tình yêu thương. VNS