Vấn đề đầu tư bên ngoài của Việt Nam – Lexology

Tuần này, một công ty thương mại điện tử Việt Nam lại xuất hiện với tin tức với hàng triệu đô la tài trợ từ các nhà đầu tư mạo hiểm quốc tế. FIFA, một ứng dụng hẹn hò nhắm mục tiêu đến người dùng nữ (xem Câu chuyện TechinAsia tại đây) Một triệu rưỡi đã được tài trợ. Các nhà sáng lập mặc dù không phải là người Việt Nam nhưng sinh sống và làm việc tại Việt Nam và đội ngũ nhân viên của họ hoàn toàn là người Việt Nam. Đây cũng là trường hợp của Sky Mavis (mà tôi đã thảo luận trong bài viết của mình tuần trước NFT Gaming và Việt Nam) Trong mỗi trường hợp và trong nhiều trường hợp khác, các công ty thương mại điện tử được thành lập và hoạt động tại Việt Nam có cấu trúc doanh nghiệp trong đó một công ty mẹ được thành lập – thường là ở Singapore – và nhận phần lớn vốn đầu tư nước ngoài.

Hệ thống đầu tư ưu tiên

Gần đây, chúng tôi đã giúp mở một công ty Singapore để hoạt động như một công ty mẹ cho một công ty Việt Nam cho một công ty công nghệ có trụ sở tại Việt Nam. Để làm được điều này, chúng tôi không chỉ phải thành lập công ty tại Singapore mà còn phải thành lập công ty 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam và lập hồ sơ để công ty Singapore trở thành nhà đầu tư duy nhất vào công ty Việt Nam. Chúng tôi đã làm điều này vì hai lý do. Một, công ty liên quan quan tâm đến việc mở rộng ra nước ngoài trong trung hạn và hy vọng rằng việc có một công ty mẹ ở Singapore sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đó. Và thứ hai, các nhà đầu tư nước ngoài nhấn mạnh rằng tỷ lệ vốn FDI và sở hữu công ty nên diễn ra ở Singapore hơn là Việt Nam.

Mặc dù điều này có lợi cho các luật sư và các công ty dịch vụ doanh nghiệp, nhưng nó cũng có tác động tiêu cực đến nhận thức quốc tế của Việt Nam. Việt Nam được coi là một quốc gia khó kinh doanh. Có rất nhiều văn bản hành chính và với mỗi lần phê duyệt hành chính, khả năng keo và tham nhũng sẽ gia tăng. Nó cũng góp phần vào việc Việt Nam chưa có công ty nào niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán nước ngoài (mặc dù Winfast và một số công ty khác đang thực hiện theo các liên kết ngược của giao dịch SPAC trong thời gian tới). Việt Nam được coi là một quốc gia khó xét xử, dựa trên các công ty quốc tế.

Tại sao Việt Nam không phải là trung tâm đầu tư trong khu vực

Có nhiều lý do tại sao các công ty chọn Singapore làm trung tâm cho các công ty mẹ của họ. Mặc dù không phải là thiên đường thuế, nhưng thuế doanh nghiệp thấp và các công ty dễ thành lập. Có thể thành lập một công ty tại Singapore trong một vài ngày và công ty có một số hạn chế về hoạt động quốc tế. Singapore tiếp cận phần lớn khu vực châu Á nhờ sự đa dạng văn hóa và cơ sở hạ tầng cũng như chính phủ thân thiện với các tổ chức quốc tế.

Sửa chữa dễ dàng

Mặt khác, Việt Nam đang ở trong một hoàn cảnh rất khác. Thời gian thành lập một công ty tại Việt Nam trung bình từ một đến hai tháng và mức đầu tư tối thiểu tương đối cao. Ở Việt Nam, vốn đầu tư ban đầu có thể là $ 1 danh nghĩa. Nó khuyến khích các công ty thành lập các công ty không nhắm vào thị trường Việt Nam. Quản lý công ty rất phức tạp và các dịch vụ thư ký của công ty không thực tế. Các nhà chức trách vẫn đang ngăn chặn việc sử dụng văn phòng ảo làm trụ sở đăng ký của một công ty tại Việt Nam. Khó có thể coi Việt Nam là ngôi nhà chung của các công ty quốc tế.

Đầu tư ra nước ngoài / ra nước ngoài

Tuy nhiên, lý do lớn nhất khiến Việt Nam không phải là trung tâm đầu tư doanh nghiệp của khu vực là các quy định nghiêm ngặt về đầu tư ra nước ngoài.

Để một công ty mẹ có thể duy trì hợp lý các công ty con ở các quốc gia khác nhau, nó phải dễ dàng nhập vốn từ quyền hạn riêng của mình sang quyền hạn của các công ty con. Điều này không chỉ bao gồm đầu vào của vốn cho công ty con mà còn bao gồm cả dòng vốn ra khỏi công ty mẹ. Mặc dù Việt Nam đã đi một chặng đường dài trong việc tạo thuận lợi cho dòng vốn FDI trong hơn 20 năm qua, nhưng quá trình giải phóng vốn vẫn còn rất nhiều khó khăn.

Đầu tư nước ngoài của công dân Việt Nam (bao gồm cả các tập đoàn) chỉ giới hạn ở một số hình thức cụ thể. I E.,

  • Thiết lập hệ thống kinh tế theo luật của nước tiếp nhận đầu tư;
  • Đầu tư theo hợp đồng nước ngoài;
  • Tham gia quản lý tổ chức kinh tế như góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp;
  • Mua, bán chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc các khoản đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán hoặc tổ chức tài chính tạm thời khác ở nước ngoài;
  • Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.

Có những hạn chế trong việc huy động và xuất khẩu vốn, cũng như vay vốn từ các ngân hàng nước ngoài (do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo trợ) và các doanh nghiệp đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài.

Không đi sâu vào độc quyền, quy trình xin giấy chứng nhận đăng ký đầu tư nước ngoài thường tương tự như thủ tục xin giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Tài liệu được chuẩn bị thích hợp phải được trình lên các cơ quan có thẩm quyền để phê duyệt. Các công ty có vốn đầu tư từ biển phải lập báo cáo tài chính và quản lý cho các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ngay lập tức và dòng vốn vào – nếu xuất hiện tại Việt Nam – phải được chấp thuận. Nhìn chung, Việt Nam có sự kiểm soát lớn đối với đầu tư nước ngoài.

Nhu cầu kiểm soát dòng vốn chảy ra, tài sản trí tuệ và vốn con người cản trở rất nhiều đến tiềm năng trở thành trung tâm doanh nghiệp khu vực của Việt Nam. Đây là một trong những lý do chính khiến nhiều công ty thương mại điện tử Việt Nam thành lập công ty mẹ tại Singapore. Các công ty khởi nghiệp cuối cùng được thành lập với mục đích đo lường vượt ra ngoài phạm vi quyền hạn của họ. Điều đó có nghĩa là tại một thời điểm nào đó, họ cần tạo ra một cơ cấu tổ chức trong đó có công ty mẹ và công ty con ở các quốc gia khác nhau. Nếu công ty mẹ là người Việt Nam, mỗi khi họ cố gắng thành lập một công ty con ở một quốc gia khác để mở rộng quy mô khởi nghiệp, họ phải trải qua một quá trình kéo dài hàng tháng để được chấp thuận. Điều này không chỉ ngăn cản các nhà sáng lập sử dụng Việt Nam làm ngôi nhà doanh nghiệp của họ mà còn ngăn cản các nhà đầu tư đầu tư vào các công ty khởi nghiệp Việt Nam và thúc đẩy sở hữu trí tuệ và kiến ​​thức kỹ thuật.

Mặc dù tôi hiểu rằng Việt Nam muốn tiếp tục giám sát công dân của mình và vẫn chưa thay đổi hoàn toàn so với Do Moi Moi Morse, chính phủ nên loại bỏ các thông lệ đầu tư ra bên ngoài. Điều này sẽ không chỉ khuyến khích các công ty sở hữu và sử dụng tiếng Việt mà còn có tác động tối thiểu đến nền kinh tế Việt Nam. Thặng dư đô la của Việt Nam quá lớn nên dòng chảy của đô la thông qua đầu tư bên ngoài không được kiểm soát sẽ rất ít, đồng thời khi dòng lợi nhuận tăng lên, chính phủ lo ngại rằng vấn đề cán cân thanh toán khó có thể xảy ra.

Ngoài ra, Việt Nam cũng bày tỏ mong muốn trở thành ngôi nhà công nghệ tiên tiến cho các công ty khởi nghiệp và doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực công nghệ. Các doanh nhân và cá nhân quan tâm đến việc thành lập các công ty này quan tâm đến việc đo lường vượt ra ngoài biên giới Việt Nam. Nếu Việt Nam thực sự muốn thu hút nhân tài và sở hữu trí tuệ để đạt được mục tiêu của mình, các công ty này cần tạo điều kiện mở rộng ra cả khu vực và toàn cầu. Cho đến lúc đó, các công ty thương mại điện tử sẽ tìm cách đặt quyền tài phán lên các công ty mẹ của họ, chẳng hạn như Singapore, vì các yêu cầu pháp lý của Việt Nam phức tạp hơn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *