Hàng nghìn người Việt Nam hiện nay cần chứng chỉ ngoại ngữ để học tập và làm việc trong và ngoài nước. Việc tạm dừng các kỳ thi này gần đây ở Việt Nam do vướng mắc trong thủ tục phê duyệt với Bộ Giáo dục đã gây ra nhiều lo ngại.
Vậy điều gì khiến những chứng chỉ ngoại ngữ này trở nên quan trọng như vậy?
Kỳ thi IELTS xuất hiện ở Việt Nam vào giữa những năm 90, ban đầu được sử dụng cho mục đích du học bằng học bổng, sau đó là cho tất cả những ai muốn đi du học. Những năm gần đây, nhiều trường học tại Việt Nam yêu cầu chứng chỉ tiếng Anh, trong đó có IELTS.
Từ năm 2021 trở đi, tuyển sinh lớp 6 vào các lớp chuyên tiếng Anh tại TP.HCM sẽ xét theo Khung tham chiếu trình độ ngôn ngữ chung châu Âu (CEFR), Cambridge Flyer và TOEFL Primary Step 2. Những em có điểm IELTS, TOEFL có thể được tuyển thẳng hoặc có nhiều lợi thế hơn so với những em không trúng tuyển vào các trường THCS công lập.
Bắt đầu từ năm học 2021-2022, tỉnh Nghệ An sẽ là tỉnh đầu tiên của Việt Nam cho phép tuyển thẳng vào THPT bằng chứng chỉ tiếng Anh. Thái Nguyên đã đưa ra chính sách miễn, giảm lệ phí thi cho thí sinh đạt từ 4.0 IELTS trở lên. Học sinh có điểm IELTS tối thiểu 6.5 có lợi thế hơn trong việc xét tuyển vào một số trường THPT tại Hà Nội.
Hai học sinh và phụ huynh (phải) làm bài thi môn tiếng Anh trong kỳ thi tốt nghiệp THPT tổ chức tại TP.HCM ngày 8/7/2022, check đáp án. Ảnh: VnExpress/Quỳnh Trân |
Các tác giả cho biết chứng chỉ ngoại ngữ mang lại lợi thế khi sinh viên tốt nghiệp và vào đại học.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho học sinh đạt điểm tối thiểu 4,0 và điểm 10 tự động môn Tiếng Anh kỳ thi tốt nghiệp THPT. Tại Hà Nội, số học sinh được hưởng chính sách này tăng từ 3.000 lên 10.800 từ năm 2019 đến 2021. Tại TP.HCM, năm nay có khoảng 7.900 học sinh không phải thi tốt nghiệp THPT môn tiếng Anh, tăng 2.000 em so với năm ngoái.
Ở một số trường đại học, chứng chỉ ngoại ngữ còn được sử dụng trong xét tuyển và xét tốt nghiệp. Năm 2017, Đại học Kinh tế Quốc dân tiếp tục sử dụng điểm IELTS và TOEFL, tiếp theo là các trường khác như Đại học Ngoại thương, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM.
Tỷ lệ học sinh trúng tuyển vào các trường đại học nhờ chứng chỉ ngoại ngữ cũng tăng lên. Tại Đại học Kinh tế Quốc dân, tỷ lệ này tăng từ 5% năm 2017 lên 30% năm 2022. Xu hướng tương tự cũng được quan sát thấy ở các trường khác như Đại học Ngoại thương và Học viện Ngoại giao Việt Nam. Một cán bộ tuyển sinh của một trường đại học ở Hà Nội cho biết trường của họ đã nhận được 11.000 hồ sơ đăng ký xét tuyển bằng chứng chỉ ngoại ngữ, trong khi trường chỉ nhận 2.000 học sinh trong diện này.
Bà Vũ Thị Hiền, Trưởng phòng Quản lý và Đào tạo Trường ĐH Ngoại thương cho biết, chứng chỉ ngoại ngữ đủ tin cậy để đánh giá năng lực ngoại ngữ của sinh viên.
Ông Đào Cường Việt, Trưởng phòng Nhân sự LG Innotek Việt Nam Hải Phòng, cho biết lao động có kỹ năng ngoại ngữ luôn có nhu cầu cao. Anh cho biết chứng chỉ ngoại ngữ sẽ là lợi thế khi đi xin việc.
Chứng chỉ ngoại ngữ cũng là vấn đề các nhà hoạch định chính sách quan tâm.
Tháng 9, Hà Nội cho phép giáo viên THPT đạt IELTS từ 6.5 trở lên tham gia khóa tập huấn 14 ngày ở nước ngoài. Sở Giáo dục Nghệ An cũng có kế hoạch tổ chức kỳ thi lấy chứng chỉ TOEIC cho giáo viên tiếng Anh từ năm 2021 đến 2024. Tại tỉnh Vĩnh Phúc gần đó, Hội đồng Nhân dân của tỉnh này đã thông qua nghị quyết vào năm ngoái, trong đó nhân viên chính phủ có thể nhận tiền thưởng từ 30-70 triệu đồng. Họ có điểm IELTS ít nhất là 6.0 (các chứng chỉ ngoại ngữ khác cũng được áp dụng).
Con gái bà Hồng đạt điểm IELTS 6.5, nhưng bà tin rằng nó không đủ để đảm bảo một suất vào các trường đại học danh tiếng nhất, chẳng hạn như Đại học Ngoại thương.
“Tôi muốn cháu thi ngay để nếu điểm chưa đạt thì thi lại hoặc chúng tôi sẽ tính đến chương trình khác. Chết,” bà Hong nói và cho biết thêm rằng bà sẵn sàng chi nhiều tiền hơn để con gái mình đạt ít nhất 7.0 điểm IELTS.
Phó Hiệu trưởng Trường Chuyên Ngoại ngữ Lại Thị Phương Thảo cho biết, chứng chỉ ngoại ngữ đóng vai trò rất quan trọng khi Việt Nam hội nhập thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, học ngoại ngữ không phải lúc nào cũng cần chứng chỉ, ông nói.
“Miễn là người học có mục tiêu, động lực và mong muốn cải thiện kỹ năng ngôn ngữ của mình là tốt rồi.”
Lợi thế ở nước ngoài
Các chứng chỉ phổ biến nhất là IELTS và TOEFL cho tiếng Anh, HSK và HSKK cho tiếng Trung, JLPT cho tiếng Nhật, TOPIK cho tiếng Hàn và DELF cho tiếng Pháp. Một kỳ thi có giá từ 450.000 đến 4,6 triệu đồng (18,11-185 đô la Mỹ).
Nhu cầu thi chứng chỉ tiếng Nhật, chứng chỉ Hàn Quốc cũng tăng cao trong những năm gần đây để phục vụ cho mục đích học tập và làm việc.
Cuối năm 2019, Việt Nam có khoảng 190.000 sinh viên du học, tăng 170.000 vào năm 2018 và 130.000 so với năm 2016, theo Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trong khi đó, khoảng 600.000 người Việt Nam đang làm việc tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, theo số liệu của Bộ Lao động, Người khuyết tật và Xã hội hồi tháng 7. Nhật Bản là thị trường lớn nhất của lao động Việt Nam kể từ năm 2018.
Ông Tuyến, trưởng phòng dịch vụ khách hàng của một công ty giới thiệu việc làm tại Nhật Bản, cho biết chứng chỉ ngoại ngữ có thể không cần thiết đối với những người lao động chân tay, nhưng dù sao thì ngày càng có nhiều người học để thi tiếng Nhật JLPT.
Khoảng 4 năm trước, trong số 40 người đi xin việc ở Nhật Bản, không ai nói được tiếng Nhật, ông Tuyền cho biết. Để đạt được cấp độ N5 của JLPT (cấp độ thấp nhất), mỗi người đã được dạy tiếng Nhật từ bốn đến sáu tháng. Nhưng năm nay, khoảng 1/3 trong số 200 người đăng ký đi làm việc tại Nhật Bản đã đạt được trình độ N5, và một số ít đạt được N4.
Tuyền nói rằng khi các công ty bắt đầu cung cấp lợi ích cho những người thông thạo tiếng Nhật, nhiều người cũng bắt đầu học ngôn ngữ này. Ông nói thêm rằng trình độ tiếng Nhật là cần thiết để làm việc tại Nhật Bản trong hai năm nữa sau khi hết hạn hợp đồng.
“Biết ngôn ngữ giúp cuộc sống ở nước ngoài dễ dàng hơn, đó là một thực tế không thể phủ nhận,” anh nói.
Giám đốc bán hàng của một công ty phần mềm cho biết cách đây vài năm rằng chứng chỉ N1-N3 của các kỹ sư sẽ được thêm vào hồ sơ của họ để chứng tỏ năng lực của công ty. Giám đốc cho biết, mặc dù điều này không còn bắt buộc nữa vì khách hàng bắt đầu tin tưởng vào kỹ năng tiếng Nhật của họ, nhưng cấp độ chứng nhận cao hơn luôn được khuyến khích.
“Giấy chứng nhận được yêu cầu để xin thị thực làm việc tại Nhật Bản trong hơn sáu tháng,” ông nói và cho biết thêm rằng có các mức hỗ trợ tài chính liên quan đến các mức chứng chỉ.